Đền thờ Tộc Phan làng Đà Sơn, Phường Hòa khánh Nam, Quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng
Mùng 6 tháng Giêng - Năm Nhâm Thìn (28-1-2012)
"Thác thì bỏ con bỏ cháu, sống thì mùng sáu tháng giêng cũng về"
Chân thành cảm tạ :
- Ô. Phan Chính và gia đình, đã giúp đỡ rất nhiều trong thời gian truy tìm nguồn gốc, đi ra dự giỗ tộc Phan, cội nguồn và nơi ăn chốn ở.
- Ông Bà Phan Hoa Lệ - Trịnh Xuân Tài, đã hỗ trợ tài chánh cho công việc tìm cội nguồn.
- Tiến sĩ Lộ Công Mười Lăm, đã giúp đỡ công việc lập gia phổ.
- Ông Bà Huỳnh Hữu Phương, đã đã hỗ trợ tài chánh cho công việc tìm cội nguồn.
- Các Thân tộc họ Phan, đã hỗ trợ tài chánh cho công việc lập gia phổ.
Kính báo :
- Phan Quốc Tuấn, gốc Hội An - hậu duệ thứ 23
5 Vị Cố : Thị Sơn, Văn Tươi, Văn Tân - Thầy thuốc Nam (cố của P.Quốc Tuấn), Thị vô danh, Văn Thịnh - từ Faifo (Phải Phố) vào Thanh Vĩnh Đông - Tân An (nay thuộc H. Châu Thành - Tỉnh Long An) Cha ông tôi đã truy tìm từ năm 1960 - 1990 đến nay tôi tiếp tục 2002 - 2012 (khoảng 54 năm). Nay tôi 59 tuổi. Liên lạc được rất nhiều chi phái khắp nơi từ Bắc vô Nam... Có đọ các vị gốc họ Phan vào Nam mở cõi, thỉ tổ Phan văn Dươn, ở Thuận Mỹ - H. Châu Thành - Long An, thế kỷ 18, các vị Cố của tôi thuộc chi Trên của con cháu Cụ Dươn. So với Chi Phái Họ Phan Tự Tông Đà Sơn - Quảng Nam - Đà Nẵng, thì Cụ thỉ tổ Phan văn Dươn, hậu duệ thứ 16.
Feb.14, 2023 神 皇 順 國 公 - 廣 南 処THẦN HOÀNG THUẬN QUỐC CÔNG - QUẢNG NAM XỨ.潘 國 俊 - 明 手 筆PHAN QUỐC TUẤN (NGUYỄN QUÓC TUẤN) MINH HOẠ
LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG ĐÀ SƠN (video clip) phần 1
LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG ĐÀ SƠN (video clip) phần 2
Đền Thờ Tộc Phan Đà Sơn Quảng Nam - TP. Đà Nẵng
Đền Thờ Tộc Phan Đà Sơn - Đà Nẵng (Video clip)
Lễ Tri Thổ - Đền Thờ Tộc Phan Đà Sơn - Đà Nẵng (Video clip)
Lễ Tế - Đền Thờ Tộc Phan Đà Sơn - TP, Đà Nẵng (Video clip)
Lăng Tổ Cô Phan thị Đào Ba
Lăng Tổ Cô Phan thị Đào Ba (Video clip)
Mộ Ngài Thành Hoàng Thuận Quốc Công Phan Công Thiên
(photo Phan Quốc Tuấn - Mùng 6 Tết năm Nhâm Thìn 2012)
Mộ Ngài Thành Hoàng Thuận Quốc Công Phan Công Thiên (Video clip)
Mộ Ngài Phu nhân Thành Hoàng Thuận Quốc Công Phan Công Thiên,
Công chúa Trần Ngọc Lãng
Công chúa Trần Ngọc Lãng
(photo Phan Quốc Tuấn - Mùng 6 Tết năm Nhâm Thìn 2012)
Làng Đà Sơn nghĩ rằng có thể đây là vật trời cho, nên thiết lễ giữa thinh không, nguyện nếu thỉnh được chuông về sẽ lập chùa thờ phụng chu đáo. Lạ thay, khi các tráng đinh ghé vai vào đòn, chuông từ từ được nhấc lên, chuông nhẹ nhàng theo người đi về. Đến một ngọn đồi nhỏ, dây đứt, chuông rơi. Dân làng cho rằng chuông tỏ ý muốn ở lại nơi này, bèn phạt đồi, san đất, lập một ngôi chùa ngay tại đó để bốn mùa hương khói. Sau đó, mọi người đi tìm bà già bắt ốc thì không ai biết bà ở đâu. Cho là có thần nhân hiện ra mách bảo, dân làng tạc tượng bà bằng gỗ, bên hông đeo cái giỏ có mấy con ốc, thờ trong chùa làng.
Ông Trần Văn Cúc cho rằng chuyện này rất khả tín. Ông nội của ông ngoại ông Cúc là Phan Công Thành ngày đó làm quan đến hàng tứ phẩm, được vua giao việc mở đường qua núi Bạch Mã. Câu chuyện chuông vang đến tai vua đã được ông Thành kể lại cho con cháu, rồi lan dần ra khắp làng. Hiện nay hài cốt ông Thành đã được đưa từ Huế về cải táng ở quê nhà Đà Sơn.
Mộ Ngài Phu nhân Thành Hoàng Thuận Quốc Công Phan Công Thiên,
Công chúa Trần Ngọc Lãng (Video clip)
Chùa Long Sơn - Làng Đà Sơn - TP. Đà Nẵng (Video clip)
Bí ẩn chuông chùa Đà Sơn
Được đúc từ cuối năm Cảnh Hưng thứ mười sáu (Ất Hợi - 1755), chuông chùa Đà Sơn là chiếc chuông có niên đại cổ nhất ở Đà Nẵng hiện nay. Ngoài những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại, chiếc chuông cổ này còn lưu lại hậu thế kỹ thuật chế tác và khắc chữ trên đồng,
Chuyện xưa tích cũ
Chuyện kể rằng, ngày nọ, có một bà già mò ốc ở Vũng Điền - nơi giáp ranh giữa Đà Sơn và Khánh Sơn, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu ngày nay, bỗng phát hiện một chiếc chuông ẩn dưới bùn. Nghe tin, dân hai làng đổ xô đi xem, làng nào cũng muốn giành chuông về phía mình. Cuối cùng, hai bên thống nhất là làng nào khiêng được chuông thì làng đó đưa về thờ. Theo lẽ thường tình thì vật trôi từ trên xuống, hai bên đồng ý cho làng Khánh Sơn được khiêng trước. Họ đánh dây thừng bằng tre cật rất chắc, nhưng chỉ mới nhích chuông lên một chút là dây đứt.
Ông Trần Văn Cúc hy vọng qua lời minh văn, các nhà nghiên cứu sẽ tìm ra “lý lịch” của chuông.
| |||
Chuyện trên do ông Bồi Lại, ông ngoại của ông Trần Văn Cúc (Phó Trưởng ban Đại diện chùa Long Sơn – Đà Sơn) kể lại. Tuy một số dị bản cho rằng người bắt ốc là phụ nữ, địa điểm tìm thấy chuông là khe Mương Nhàn... nhưng tất cả đều cho rằng chuông được các cụ ngày trước cất giấu để quan quân triều Tây Sơn không trưng thu đúc súng đạn.
Chùa ngày đó rất lớn, theo lời các cụ, có ba dãy điện thờ theo hình chữ tam. Qua các thời kỳ chiến tranh, chùa bị hư hại hoàn toàn, phải che tạm mấy tấm tôn. Mãi đến năm 1995, chùa mới được trùng tu khang trang như hiện nay và đổi tên thành Long Sơn.
Từ lời minh văn đến “lý lịch” của chuông
Theo lời minh văn bằng chữ Hán khắc trên chuông, thì chuông do bổn đạo toàn xã và thiện nam tín nữ thập phương hiến cúng, ban đầu được đặt ở chùa Tây Linh, xã Đà Sơn, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt. Chiếc chuông nặng 450 cân này, cũng theo lời minh văn, có tiếng vang xa được mười tám tầng đất (“đắc thập bát trùng ư địa”), điều này dẫn đến một giai thoại khá lý thú.
Tương truyền, trong một lần vào viếng chùa Non Nước, vua Minh Mạng nghỉ chân ở núi Bạch Mã. Nửa đêm, có tiếng chuông chùa vọng đến làm kinh động giấc ngủ của ngài ngự. Vua truyền cho quan địa phương đi tìm và phải làm một “thủ thuật” gì đó để xả bớt độ vang của tiếng chuông.
Chiếc chuông 255 tuổi đã làm cho ngôi chùa trở nên nổi tiếng.
| |||
Chuyện xưa hư thực thế nào giờ không còn ai nghĩ đến. Chỉ biết rằng, mỗi khi chuông ngân vang, thiện nam tín nữ đến viếng cảnh chùa đều cảm thấy như được gác lại mọi lụy phiền, cõi lòng thư thái. Mọi người đều tin vào những điều được chép ở lời minh văn khắc trên chuông: chuông ngân vang là lời khấn nguyện cho “cửu huyền thất tổ, phụ mẫu tông thân” thảy được “siêu thăng đồng sanh lạc quốc”. Chuông ngân vang cũng là lời cầu chúc cho “nhân nhân giai cát khánh/ vật vật đắc bình an” – người người đều vui tốt/ vật vật được bình an.
Có điều, đến nay, vẫn chưa ai biết “tung tích” chùa Tây Linh ở đâu trên đất Đà Sơn xưa, trước khi chùa bị hư hại và chuông thì bị vùi dưới bùn, để rồi từ đó nảy sinh ra câu chuyện huyền thoại cùng với việc hình thành ngôi chùa mới Đà Sơn nói trên.
Các nhà nghiên cứu cho rằng chuông chùa Đà Sơn được đúc theo phong cách của người Chăm, thon và dài, có đến tám núm (chuông người Việt bầu và ngắn, chỉ có 4 núm). Chuông cao 140cm, đường kính miệng chuông 68cm, các lời minh văn đều được khắc với nét chữ rất đẹp (ảnh). Chiếc chuông cổ này không chỉ lưu lại hậu thế kỹ thuật đúc và khắc chữ trên đồng mà con là một trong những di sản Hán Nôm trên chất liệu đồng có giá trị ở Đà Nẵng, đã được xếp hạng di tích cấp thành phố.
Các nhà nghiên cứu cho rằng chuông chùa Đà Sơn được đúc theo phong cách của người Chăm, thon và dài, có đến tám núm (chuông người Việt bầu và ngắn, chỉ có 4 núm). Chuông cao 140cm, đường kính miệng chuông 68cm, các lời minh văn đều được khắc với nét chữ rất đẹp (ảnh). Chiếc chuông cổ này không chỉ lưu lại hậu thế kỹ thuật đúc và khắc chữ trên đồng mà con là một trong những di sản Hán Nôm trên chất liệu đồng có giá trị ở Đà Nẵng, đã được xếp hạng di tích cấp thành phố.
Văn Thành Lê
ô.Phan văn Nam - Tộc trưởng, phát biểu nhân buổi giỗ (phần 1) (Video clip)
ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng, phát biểu nhân buổi giỗ (phần 2) (Video clip)
Hàng đứng nhất (từ trái qua): Hai ô. Phan .... (Ban Nghi lễ), ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng, ô. Phan Châu Sơn - Tộc phó, ô. Phan Chính, ô. Phan Ngọc Tâm
Hàng đứng nhì (từ trái qua): ô. Phan ..., ô. Phan ..., ô. Phan Trình, ô. Phan ..., ô. Phan Đào, ô. Phan văn Mẹo, Bà Phan ...., ô. Phan Phố
Hàng đứng trước (từ trái qua): ô. Phan Trình, ô. Phan ..., ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng, ô. Phan Quốc Tuấn, ô. Phan Châu Sơn - Tộc phó, ô. Phan Chính, ô. Phan Ngọc Tâm.
Hàng đứng sau (từ trái qua): Các ô. ....... (4 vị), ô. Phan Xuân Hiến, Bà Phan ...., ô. Phan Phố
ô. Phan Xuân Hiến, ô. Phan Quốc Tuấn
ô. Phan Xuân Hiến, ô. Phan Chính
ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng, ô. Phan Xuân Hiến - Tộc phó
ô. Phan Thân, ô. Phan Chính
ô. Phan Quốc Tuấn, ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng (ông năm nay 84 tuổi)
(từ tráiqua): Phan Công Tâm, Phan Chính (1934) Phan Đào (1959) Phan Thân (ngồi) Phan Quốc Tuấn (1954) Phan Xuân (ngồi)
Công khai tài chánh
| Ô. Phan Công Nhựt (Cẩm Châu), Ô. Phan Thỉnh (Giáng La) |
Ô. Phan Quốc Tuấn (Hội An), Ô. Phan Thỉnh (Giáng La - Điện Thọ, Điện Bàn)
Ô. Phan Kết, Ô. Phan Quốc Tuấn, Ô. Phan Chân,
Ô. Phan Bình (Cẩm Châu - hướng ra Cửa Đại)
(từ trái qua): ô. Phan Kết, ô. Phan Quốc Tuấn, ô. Phan văn Chân, Ô. Phan Bình
(từ trái qua): ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng, ô. Phan văn Tải, ô. Phan văn Trình,
ô. Phan văn Chân, ô. Phan văn Phố (đứng sau ô. Chân)
(từ trái qua): ô. Phan văn Trình, ô. Phan văn Chân, ô. Phan Ngọc Tâm,
ô. Phan Châu Sơn
(từ trái qua): ô. Phan Chính, ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng, ô. Phan văn Tải,
ô. Phan văn Trình
Ban Tế Lễ & Nghi Lễ (từ trái qua): ô. Phan Lục (1930) 83 tuổi, ô. Phan Để (-) 84 tuổi, ô. Phan Vốn (-), ô. Phan Ích (1920) 89 tuổi
ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng Phái Tự Tông Đà Sơn - Quảng Nam - Đà Nẵng
ô. Phan Quốc Tuấn
"Chưa đi chưa biết Đà Sơn, đi rồi mới biết cội nguồn quê hương"
Chùa Linh Ứng - TP.Đà Nẵng (Video clip)
Nhà cỗ ở Quảng Nam - Đà Nẵng (Video clip)
Nhà Cụ Tú Nho - Hàn Lâm Cung Phụng - TP. Đà Nẵng (Video clip)
NGƯT Phan Thanh Sắc, viết tặng sách "GÒ CÔNG ....lặng thầm hương sắc" 5 Feb. 2012
Phan Quốc Tuấn và NGƯT Phan Thanh Sắc
Bài viết của Nhà văn Trần Anh Tài
Chân thành cảm ơn NGƯT PHAN THANH SẮC, đã biếu Tư liệu quý giá viết về Gò Công, nơi quê hương của Tứ Quảng, dừng chân...
V/v "Hợp biên Thế phả Họ Phan"
Ban Tuyên Giáo Quận Ủy Liên Chiểu 89 Ngô Thì Nhậm TP. Đà Nẵng
E-mail: btgqudn@gmail.com
tuyengiaolc@yahoo.com.vn
ô. Phan văn Nam - Tộc trưởng Phái Tự Tông Đà Sơn - Quảng Nam - Đà Nẵng
ô. Phan Quốc Tuấn
"Chưa đi chưa biết Đà Sơn, đi rồi mới biết cội nguồn quê hương"
Cầu Thuận Phước - TP.Đà Nẵng (Video clip)
Chùa Linh Ứng - Bãi Bụt hiện được biết đến như một điểm nhấn tâm linh quan trọng bậc nhất của TP Đà Nẵng. Ở đây, du khách đứng bất cứ ở góc nào trên quần thể này cũng có thể chiêm bái được tượng Quán Thế Âm Bồ tát khổng lồ. Tượng cao 69,7m, đường kính tòa sen rộng 35m, trong lòng tượng có 17 tầng, mỗi tầng thờ 21 Đức Phật. Chiều cao của bức tượng tương đương với một tòa nhà 30 tầng, tọa ở nơi có phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Phan Quốc Tuấn và NGƯT Phan Thanh Sắc
Bài viết của Nhà văn Trần Anh Tài
Chân thành cảm ơn NGƯT PHAN THANH SẮC, đã biếu Tư liệu quý giá viết về Gò Công, nơi quê hương của Tứ Quảng, dừng chân...
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
THÔNG BÁO CỦA PHAN TỘC VIỆT NAMV/v "Hợp biên Thế phả Họ Phan"
Ban Tuyên Giáo Quận Ủy Liên Chiểu 89 Ngô Thì Nhậm TP. Đà Nẵng
E-mail: btgqudn@gmail.com
tuyengiaolc@yahoo.com.vn
DÒNG HỌ VỊ THỦY TỔ
PHAN CÔNG THIÊN Ở ĐÀ SƠN
Phần nhiều dòng họ các chi phái ở miền trong theo phổ liệu đều ghi gốc tích thời thượng cổ xuất phát từ Việt Thường bộ, Thanh Lam động(a) về sau di chuyển vào Lâm Châu (Lâm Bình) rồi mới chuyển vào đạo Quảng Nam(b) và tiếp tục vào tận cực nam.
Ông Phan Công Thiên gốc từ Thanh Hóa, sinh ngày 6 tháng giêng năm Mậu Ngọ (1318) đời Trần Minh Tông (1314-1329) lấy vợ là Trần Ngọc Lăng, công chúa con vua Trần, sinh năm Quý Hợi (1323). Ông được vua Trần ban chức "Ðô chỉ huy sung thập tam châu kinh lược chiếu dụ xử trí sứ" tức là chức Kinh lược coi 13 châu, chiêu dụ các chủng tộc địa phương, xử trí an cư lạc nghiệp, hòa hợp làm ăn.
Ông vào đóng tại Ðà Sơn năm 1346 lúc này gọi là Trà Ngâm động, Trà Na Xử, với diện tích rất rộng thuộc phía nam xứ Hóa Châu, từ sông Cu Ðê phía nam đèo Hải Vân vào đến huyện Ðiện Bàn, có các họ Phan, Nguyễn Kiều, Ðỗ vào khai hoang lập ấp ở lẫn với người Chiêm Thành.
Kể từ năm 1307, sau lúc Chiêm Thành nhường lại châu Ô, Lý, vua Trần Anh Tông đổi tên là châu Thuận (từ Quảng Trị vào bắc Thừa Thiên) và Châu Hóa (từ nửa phía nam Thừa Thiên vào địa bàn Quảng Nam phía bắc sông Thu Bồn), việc chỉ đạo sản xuất khai hoang được thuận lợi, nhưng sau khi vua Chiêm là Chế Mân chết, bà Huyền Trân được đưa về bắc thì tình hình trở nên gay go, các vua Chiêm kế vị đòi lại 2 châu ấy. Chế Bồng Nga từ 1377 gây chiến với Ðại Việt đã từng tiến ra phía bắc làm chủ tình hình từ Nghệ An trở vào Thuận Hóa. Cuộc chiến xảy ra liên miên kéo dài cho đến lúc Chế Bồng Nga tử trận vào năm 1390, tình hình mới ổn định.
Ông Phan Công Thiên vào làm Kinh lược sứ vùng Hóa Châu thời kỳ khó khăn, thế lực quân Chiêm Thành hùng mạnh, lòng dân ly tán, nhưng ông khôn khéo xử trí người Việt và người Chiêm đảm bảo cho sản xuất ổn định, sinh hoạt an toàn.
Ðến cuối đời Trần do tuổi già sức yếu, ông xin nghỉ, được vua Trần phong là "Thành Hoàng Thuận Quốc Công" giao cho 2 người con tiếp tục nhiệm vụ của cha: Kinh lược các châu, động trại, toàn quyền xử lý các địa phương.
Ông Phan Công Thiên về dựng tư phủ tại trại Trà Na làng Ðà Sơn bấy giờ. Người con trưởng là Phan Công Chánh dựng công phủ tại Ðà Câu (sau là Lạc Câu) châu Thăng Hoa, người con thứ 2 là Phan Công Nhâm dựng công phủ tại trại Nội Ðồng, xã Ðà Ly, đặt huyện nha tại trại Kỳ La. Nhưng tiến trình diễn biến một cách bất lợi: năm 1400 Hồ Quý Ly giết vua nhà Trần, mà hai ông Công Chánh. Công Nhâm lại là cháu ngoại Hoàng tộc Trần Triều công chúa, một đối tượng mà nhà Hồ đương tìm cách trừ khử.
Với trách nhiệm đối với nhân dân, và trách nhiệm riêng đối với gia đình, ông Phan Công Thiên phải bố trí cho hai người con: con trưởng xin từ chức mượn cớ về nghỉ để nuôi dưỡng cha mẹ già. Con thứ 2, ông Phan Công Nhâm phải thu hết sổ sách giấy tờ đến yết kiến quan nhà Hồ, nói dối là chào mừng chính quyền mới và vâng lệnh nhận công việc Triều Hồ để tránh hiềm nghi. Viên quan nhà Hồ vui mừng thiết đãi yến tiệc rồi giao cho ông Công Nhâm nhận quản lý số lưu dân người Việt, tha dòng tôn thất cũ nhà Trần, ôngchuyển những dân Việt chống lại Triều mới, di chuyển vào, chia vào các trại cho làm nhà ở và cấp ruọng đất để sản xuất ổn định.
Năm 1402, Hồ Quý Ly chiếm đất Chiêm Ðộng, Cổ Lũy, đặt 4 châu: Thăng, Hoa, Tư Nghĩa (Quảng Nam, Quảng Ngãi) nhưng khi nhà Minh đánh bại Hồ Quý Ly, đem đất Chiêm Ðộng Cổ Lũy trả lại cho Chiêm Thành, thì người Việt ho họ Hồ điều vào, nay lại chạy ra châu Hóa phía bắc sông Thu Bồn, ông Phan Công Nhâm vẫn khôn khéo xử trí để đảm bảo cho người Việt được an toàn.
Tuy vậy, một người cháu (đời thứ III) là ông Phan Công Minh vẫn bí mật rèn luyện lớp trẻ, chuẩn bị lực lượng để chờ cơ hội lập công cứu nước. Năm 1425, lúc vua Lê cử tướng Trần Nguyên Hãn vào đánh Tân Bình, Thuận Hóa, thì ông Phan Công Minh đem lực lượng sung vào nghĩa quân chống đánh giặc Minh lập được nhiều chiến công. Nên khi đánh đuổi được giặc Minh, nước nhà hoàn toàn giải phóng, vua Lê phong ông là "Thuận Hóa hầu" (mộ ông bà tại làng Ðà Sơn có bia ký).
Ông Phan Công Thiên mất ngày 14-4 âm lịch năm 1405.Do có công tích lớn nên Triều Trần phong sắc "Thành Hoàng Thuận Quốc Công"; Triều Lê phong "Hữu Dực Thánh Thành Hoàng"; Triều Nguyễn phong "Dực bảo trung Hưng linh phò Tôn Thần" - Hiện nay lăng mộ ông tại thôn Ðà Sơn, xã Hòa Khánh, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, đã được công nhận là di tích địa phương.
Con cháu ông vẫn tiếp tục khai hoang lập ấp, có nhiều công tích ở nhiều nơi, nhiều vùng đất nước: Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Khánh Hòa, Bình Thuận và tận Nam Bộ.
ĐỆ BÁT TỔ (THƯỢNG THỈ TỔ GIÁNG LA)
PHAN ĐẠI THANH LAN huý PHAN CÔNG MIÊN
NHÀ THỜ PHAN ĐẠI TỘC GIÁNG LA
LA TRUNG, xã ĐIỆN NGỌC, huyện ĐIỆN BÀNG, tỉnh QUẢNG NAM
潘 大 族 祠 仃 - PHAN ĐẠI TỘC TỪ ĐINH
NHÀ THỜ PHAN ĐẠI TỘC GIÁNG LA
LA TRUNG, xã ĐIỆN NGỌC, huyện ĐIỆN BÀNG, tỉnh QUẢNG NAM
(từ trái qua): Phan Ánh (Thủ quỹ), Phan Hoàng Nam,
Phan Công Ngơi (Tộc trưởng), Phan Quốc Tuấn















