HỘI ĐỒNG PHAN CÔNG TỘC GIÁNG LA ĐIỆN THỌ ĐIỆN BÀN QUẢNG NAM
PHAN CÔNG NGỢI - Tộc Trưởng
PHAN CÔNG CƯỜNG - Tộc Phó
PHAN CÔNG NGỌC - Tộc Phó
PHAN CÔNG EM - Trưởng Phái 3
PHAN CÔNG LONG - Phó Phái 3
PHAN CÔNG BA - Trưởng Phái 5
PHAN CÔNG TÊ. - Phó Phái 5
PHAN CÔNG TÁNH - Trưởng Phái 6
PHAN CÔNG TÂN - Phó Phái 6
PHAN QUỐC TUẤN - Trưởng Phái 4
Lễ giỗ Phan Công Tộc - Giáng La - Điện Thọ, Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam
Mùng 08 tháng 02 năm Giáp Thìn (17/03/2024)
*Video clip 16:44’ do Ái nữ gốc họ Phan, Huỳnh Ngọc Điệp-Phan Hoàng Nam
Phái 4 (gốc Dương Xuân Hội - Long An)
Các Linh Vị Cô Hồn Tổ Tiên Ông Bà Hiển Linh, đã cho thấy sự Huyền diệu trong thời gian các vị Tế Lễ đọc văn tế, Tộc trưởng Phan Công Ngợi, Hội đồng Tế Lễ và các trưởng bốn phái đang quỳ lạy.
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 22 NĂM NGÀY THÀNH LẬP
'LIÊN CHI PHÁI PHAN TỘC TƯƠNG TẾ " GIỖ TỔ PHAN TỘC,
NAY LÀ HỘI ĐỒNG PHAN TỘC VIỆT NAM TP. HỒ CHÍ MINH
(22/4/1990 - 22/4/2012)
15 tháng Hai - AL. (7/3/2012)
94 Hồng Lạc - P.11. TP.HCM
PHAN TỪ ĐƯỜNG
(bên trái): Phú Sơn Phan Tộc Cung Phụng
NAM THIÊN HẢI VŨ CỘNG ĐẠI THÀNH
BẮC ĐỊA TÙNG VƯƠNG THUẦN TUẤN HỮU
Phan Điểm
Phan Điểm (đánh trống) Phan ...., Ô. Phan Chính
GIỖ LIÊN TỘC PHAN TP.HCM 28 - 1 NHÂM THÌN (19/2/2012)
Phan Chính, Phan Giản, Phan Quốc Tuấn, Phan Thái Nhựt
ĐOÀN TỘC PHAN Ở TQ và Ô. Phan Quang Đương - Tộc Phó
ĐOÀN TỘC PHAN Ở TRUNG QUỐC và Ô. Phan Quang Đương - Tộc Phó
THỈ TỔ TỘC PHAN ở QUẢNG TÂY TQ. PHAN DÂN VĂN HÓA
Sư cô - Tiến sĩ Phan thị Thức, Phan Quốc Tuấn
PHAN QUỐC TUẤN
(photo - Lâm Quý Luyến)
http://tphoian.blogspot.com/2011/11/nguyen-quoc-tuan-tac-gia-tac-pham.html
http://vn.360plus.yahoo.com/nqtuan2910/
http://vn.360plus.yahoo.com/nqtuan2910/
http://www.youtube.com/nqtuan2910
http://www1.ocn.ne.jp/~kobakan/contents/vietnam_hoian.html#chap0
http://www.36phophuong.vn/Pho-co-Hoi-An_c2_385__1192.html
1./ Nhánh Phan ở Thanh Vĩnh Đông - H. Châu thành Long Anhttp://www1.ocn.ne.jp/~kobakan/contents/vietnam_hoian.html#chap0
http://www.36phophuong.vn/Pho-co-Hoi-An_c2_385__1192.html
"Hội-An (Faifo = phải phố) Nơi chôn rau cắt rốn của Cố nội tôi, Ôi tôi yêu thương làm sao tả cho hết ý"
2./ Nhánh Phan ở Thị xã Hội An
2./ Nhánh Phan ở Thị xã Hội An
TRIỆU ĐÀI
(chữ thờ vị Thỉ Tổ)
(chữ thờ vị Thỉ Tổ)
THỌ SƠN
(chữ thờ các vị tổ tiên)
(chữ thờ các vị tổ tiên)
PHƯỚC HẢI
(chữ thờ các vị sanh ra rồi mất (tảo tràng)
3./ Nhánh Phan ở H. Châu Thành (Dương Xuân Hội) - Long An
Ô. Phan Kim Trụ (Dương Xuân Hội), Ô. Phan Quốc Tuấn (Thanh Vĩnh Đông), Bà ....,
Bà Phan Ngọc Sương (Long Trì)- Giáo sư ĐHYK, Bà Phan thị Phi
Bà Phan Ngọc Sương (Long Trì)- Giáo sư ĐHYK, Bà Phan thị Phi
Ô. Phan Kim Trụ, vui mừng khi Liên tộc Phan Việt Nam tìm nối kết được vị Thỉ Tổ Phan văn Sử - Đời 16 ở Đà Sơn - Quảng Nam. Ban trị sự tộc Phan ở Long Trì - Dương Xuân Hội tỉnh Long An, hiện có 05 nhà thờ tộc Phan.
tư liệu do Ô. Phan Chính - Hà Tỉnh, gởi vào
0838981102 - 685/52/15 Xô Viết Nghệ Tỉnh - P.26 - Q. Bình Thạnh
Ô. Phan Chính (1934) (Đà Sơn Quảng Nam), Ô. Phan Kim Trụ (1939) Long Trì-Dương Xuân Hội tỉnh Long An
Thỉ Tổ Phan Công Sử - Đời 16

Tộc Phan Long Trì-Dương Xuân Hội, Long An GIỖ NGÀY 06/05 ÂM LỊCH
Hội đồng tộc Phan (Long Trì-Dương Xuân Hội. Long An) (từ trái qua) : Tộc phó Phan văn Huởn, Tộc trưởng Phan văn Đạt (5) tự Điệp (1919 - 2011) thọ 93 tuổi,
Hình: (hàng ngồi, từ trái qua) thứ 2 Phan Quốc Tuấn (đời 8); thứ 4 Phan Thanh Nhã (đời 9) thừa tự nhà thờ chánh họ Phan ở Dương Xuân- Hội - Tân An. (hàng đứng, từ trái qua) Phan văn Huởn; Phan văn Đạt tự Điệp (đời 7) (1919 - 2011) là Tộc trưởng (người đặt tay lên vai Tuấn) năm nay 89 tuổi còn minh mẫn và sáng suốt; Phan-Ngọc-Ẩn (đời 7); cháu Ô.Phan Kim Chi (chef de Canton); Phan Kim Trụ (đời 8) thư ký tộc; Phan văn Sang (đời 8)...
4./ Nhánh Phan ở Long Trì - Long An
4./ Nhánh Phan ở Long Trì - Long An
- Đây là hậu duệ họ Phan ở Long-Trì, Tân-An (từ trái qua Ô. Phan-văn-Hương(2) thế hệ thứ 7 (bác 2 đã mất năm 2012 thọ 87 tuổi); Phan-Quốc-Tuấn và hai vợ chồng Phan-Thanh-Vân thế hệ thứ 8 (người dẫn dắt đi tìm các vị trí của thỉ-tổ họ Phan từ Miền Trung vào Nam-Việt định cư. Các ngánh con cháu chắt chít ruộng vườn cò bay thẳng cánh; nhưng có một điều hối tiếc không biết được gốc tổ xuất phát từ đâu và tuổi các vị cùng năm mất mà chỉ biết tên mà lập tông chi các vị thật đáng trân trọng; nghe kể lại do hai Cụ Liêu-Quang-Vinh và Liêu-Quang-Dung dịch lại từ bảng PHAN TÔNG THẾ PHỔ chữ Hán ra chữ Quốc-Ngữ. Dựa vào bảng dịch này cụ Phan-Kim-Định (1901-1979) thế hệ thứ 6 ấn tống ra nhiều bản sao mà phân phát cho các chi nhánh lưu giữ về sau... đến ngày 20 tháng 2 năm 2011, tin mừng cho toàn tộc Phan Long Trì - Dương Xuân Hội đã tìm ra thỉ tổ ở Miền Trung. (photo năm 2005)
5./ Nhánh Phan ở Đá Hàn - Tân An
5./ Nhánh Phan ở Đá Hàn - Tân An

Tộc Phan Đá Hàn - Tân An. GIỖ NGÀY 22/02 ÂM LỊCH
Chi này cũng chưa tìm rõ được nguồn tộc.
6./ Nhánh Phan ở Thủ Dầu Một - Bình Dương
6./ Nhánh Phan ở Thủ Dầu Một - Bình Dương
Từ Đường Phan (Định Phước - Thủ Dầu Một (gốc Phái Bảo An)
7./ Nhánh Phan ở Bà Điểm - Hốc Môn

Ô. Phan văn Bổn, Ô. Phan văn Giáo (2) (1919) Tộc trưởng họ Phan Công Hớn
(Bà Điểm)

Ô. Phan văn Bổn, nhánh họ Phan Công Hớn (Bà Điểm) GIỖ NGÀY 25/02 âm lịch

Nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật (1931-2013) thọ 83 tuổi
với Ô. Phan văn Bổn, nhánh họ Phan Công Hớn (Bà Điểm) giỗ ngày 25/02 âm lịch (13/04/2015)
với Ô. Phan văn Giáo (2) (1919) 97 tuổi - Tộc trưởng họ Phan Công Hớn - Bà Điểm, Hóc Môn
giỗ ngày 25/02 âm lịch (13/04/2015)
8./ Nhánh Phan ở Bảo An - Quảng Nam
Nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật (1931-2013) thọ 83 tuổi
với Ô. Phan văn Bổn, nhánh họ Phan Công Hớn (Bà Điểm) giỗ ngày 25/02 âm lịch (13/04/2015)
với Ô. Phan văn Giáo (2) (1919) 97 tuổi - Tộc trưởng họ Phan Công Hớn - Bà Điểm, Hóc Môn
giỗ ngày 25/02 âm lịch (13/04/2015)
8./ Nhánh Phan ở Bảo An - Quảng Nam


Ô. Phan-Bá-Lương (1952 - 2021) Trưởng Ban Trị Sự tộc Phan (Bảo-An)
vị này là Cử nhân Kinh tế, đã cung cấp thông tin tư liệu quý giá về tộc PHAN bảng chữ nho do Kỵ Phan-Khắc-Nhu bút tự và Ô. Phan-Đức-Mỹ
dịch từ Hán tự ra Quốc ngữ.
9./ Nhánh Phan ở Đức Hòa - Long An
9./ Nhánh Phan ở Đức Hòa - Long An

Miếu Quan Thánh ở Đức Hòa, nơi thờ Ngài Phan-Công-Tấn- Huỳnh, Đời thứ 15 (hậu duệ Ngài Phan-Công-Thiên)
Linh vị của Ngài Phan-Công-Tấn- Huỳnh và hai vị Phu nhân
(Góc giao lộ Trần Quang Diệu và Huỳnh Văn Bánh, ngã tư đèn xanh đỏ quẹo phải hướng từ SG xuống, Mộ ngài đoạn giữa trong hẻm)

Phan văn Ngoạt (1943 - 2014) chít nội đời thứ 22 của Ngài Phan Công Tấn Huỳnh - Đời 17
Đền thờ tại Miếu Quan Thánh - Đức Huệ . Hậu duệ Ngài Phan Công Thiên
(ảnh chụp ngày13/08/2008)
Đền thờ tại Miếu Quan Thánh - Đức Huệ . Hậu duệ Ngài Phan Công Thiên
(ảnh chụp ngày13/08/2008)
Đời thứ nhứt Ngài Phan Công Thiên
Đời thứ 14 Ngài Phan Công Tấn Thọ
Đời thứ 17 Ngài Phan Công Tấn Huỳnh, húy là Khiêm
Sanh 12 Ất Hợi , Tốt tháng 11 Giáp Ngọ, chức vụ Huỳnh Ngọc Hầu - Nguyên Tổng trấn Phiên An
Đời thứ 18 Phan Tấn Hùng
Đời thứ 19 Phan văn Đông
Đời thứ 20 Phan văn Mực
Đời thứ 21 Phan văn Bài

- Đây là bài thơ ý nói công đức tạo dựng, phía hậu mộ chí của hai Kỵ Phan văn Huê và Kỵ bà thứ nhì tại Thạnh Trị - Gò Công. Bản dịch chữ Nho có nhờ các vị người Việt gốc Hoa, nhưng chưa phù hợp với văn chương chữ Nôm, ông Phan văn Cử (3) (1935) Trưởng ban trị sự tộc Phan ở Dương Xuân Hội - Thị trấn Tầm Vu, dịch lại chính xác phù hợp với văn chương Việt Nam (cách đọc từ trên xuống, trái qua phải)
Ghi lại Nguyễn Quốc Tuấn tức Phan Quốc Tuấn
PHONG ĐẦU VÂN Ế THỤ HẠ PHONG XÚY
Ông bà quan lại, con cháu hèn mọn
NAN QUY TẠO HÓA ĐIỀU CẢM TIÊN TỪ
Khó của tạo hóa cảm kích từ ân đấng tiền nhân
TUẾ ĐỒNG CƯƠNG CỰC ĐỨC QUYẾT VÔ DI
Tâm tư của mình đồng tông chi không riêng tư
NGHIỆP THÙY KHẢ KẾ CỐC QUYẾT HỮU DI
Sự nghiệp truyền lại noi theo còn sót lại của ông bà để lại cho mình
PHIỆT HÀ THỌ TOÁN HỐT NHĨ TIÊN QUY
Dòng dõi lưu truyền lâu dài, con người mất sớm
NGHĨA PHƯƠNG THINH ĐOẠN ĐỊCH GIÁO PHONG VI
Tiếng thơm mẫu mực gia phong nối truyền đến sau giáo dục kém đi
XUÂN VÔ GIỚI TỮU ĐÌNH BẤT VÕ Y
Xuân không có rượu, trước sân không có trẻ vui đùa
BẰNG KIẾT ĐỊA DỤNG TRÁNG THẠCH CƠ
Người xưa lựa chỗ đất tốt dùng sức lực khai khẩn cơ nghiệp này
LƯU THỦY TÀ DƯƠNG THIÊN CỔ HẬN THU
Như nước chảy mây trôi, những người đã mất đi nối tiếc ông bà
SƯƠNG XUÂN LỘ BÁCH NIÊN BI KHẮP XUYẾT
Sương mùa xuân kết tụ lại thành giọt, sớm còn tối mất
SUY TỪ KỈNH KHẮC VU BIA
Lời nhắn nhũ khắc vào bia đá
THIÊN VẬN MẬU TUẤT XUÂN KIẾT NHẬT
Ngày tốt Trọng Xuân (tháng hai) năm Mậu Tuất
Ghi lại Nguyễn Quốc Tuấn tức Phan Quốc Tuấn
GÒ CÔNG - CHỢ GIỒNG ÔNG HUÊ
Xin đường đột chào thành viên Thạnh-Trị. Nhân biết Thạnh Trị có họ Phan, tôi ghi lại vài nét về chợ Giồng ông Huê, tất nhiên có đôi chút cần hiền huynh hay muội góp ý. Nơi xã Thạnh Trị bây giờ ngày trước gọi là Vĩnh Thạnh (Vĩnh Thạnh và Vĩnh Trị sáp nhập nên có tên gọi là Thạnh Trị.) Tôi muốn nhắc lại chuyện xưa vẫn mãi đến ngày nay còn Gò Công tên gọi có liên quan đến người tạo dựng ra CHỢ GIỒNG ÔNG HUÊ.
Chợ Giồng Ông Huê tức là chợ Vĩnh Lợi hay Vĩnh Bình, tọa lạc trên bờ sông Vĩnh Bình, Sông này chảy từ Thị xã Gò Công xuyên qua các xã Yên Luông, Thạnh Trị,Vĩnh Bình, Thạnh Nhựt và giáp nối với sông lớn ở tỉnh Tiền Giang, quận Chợ Gạo.
Ngày xưa khoảng trước 1895 một vài chục năm (vì người lập ra chợ này là ông Phan văn Huê chết vào năm 1895, sách Gò Công xưa và nay của tác giả Hùynh Minh ghi là Hồng Huê, nay xin xác nhận là Phan văn Huê vì các con cháu còn gia phả ghi rõ. Ngoài ra trên tuần báo Văn Nghệ xuất bản tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn vừa ấn hành vào đầu năm 2007 có đăng về việc này trong phần những phú hộ miền Nam..., có ông Phan văn Huê..) ông Phan văn Huê đến xã Vĩnh Thạnh lập nghiệp, mở mang, khai phá ruộng đất, vườn tược, đã sở hữu rất nhiều mẫu đất nơi đây. Lúc làm ăn khá, ông Phan Văn Huê bỏ tiền của xây cất cái chợ tên gọi là chợ Giồng, vị trí nằm gần các giồng đất và cát.Ngươi xưa thấy đâu đặt tên đó.Nghĩ đến công của ông Phan văn Huê, người dân buôn bán hay khách thương hồ đến đây trao đổi hàng hóa, lấy tên của ông là Huê để gọi luôn tên cho để dễ nhớ đồng thời nói lên việc tri ân người tạo dựng nơi buôn bán này.Từ đó tên "chợ giồng ông Huê" được dân chúng thường nói đến.
Xin lượt qua thêm vài chi tiết có liên quan đến ông Phan Văn Huê.Ông Phan văn Huê có người vợ trước tên là Lê Thị Vân, có người con gái lớn tên là Phan Thi Huệ, bà nầy là bà nội của ông Hồ Văn Trung, cựu Đốc Phủ Sứ và là nhà văn Hồ Biểu Chánh (sinh quán xã Bình Xuân-Gò công) Ông Hồ Biểu Chánh gọi ông Phan văn Huê là ông cố, có mấy người con đều có học vị và chức vụ cao như quý ông Hồ văn Kỳ Trân, Hồ văn Di Thuấn, Hồ văn Di Hinh, ..Hồ văn Ứng Kiệt ... Các cháu của ông Hồ Biểu Chánh như Phó Đề Đốc Hồ văn Kỳ Thoại, ..Kỷ sư Hồ văn Di Hấn..đều cư ngụ tại Mỹ, ngoài ra các cháu của ông Phan Văn Huê đời thứ 5 và 6 sau tháng tư 1975 vượt biên ra nước ngoài và hiện định cư tại các nước Pháp, Bỉ, Úc, Mỹ có hơn trăm người. Số cháu còn lại ở tại Saigon cũng có học vị như bác sĩ, kỷ sư đều có cuộc sống khá vững.
Khi bà vợ trước của ông Phan văn Huê qua đời, ông tục huyền với bà Lê Thị Tùng.Bà nầy không có con nên nhận người cháu gái làm dưỡng nữ đặt tên là Phan Thị Lụu. Bà Lựu có chồng tên là Trần Công Hiển. Ông Hiển làm huyện thời đó nên dân chúng thường gọi ông bà Huyện Hiển. Bà Lựu và ông Hiển có người rễ là CVT, thường gọi là ông già Sáu Câu, làm việc tại Bộ Công Chánh Saigon. Ai đã từng đi thi bằng lái xe đều nghe danh ông già Sáu Câu. Hai người rễ khác là Ls D T Tài, Tổng Trưởng Tài Chánh thời chánh phủ do ông Trần văn Hữu làm thủ tướng. và người rễ nữa là Bs Nguyễn văn Bổn, phòng mạch tọa lạc tại đường Frère Louis bên kia thành Ô Ma, giữa đoạn đường rạp Quốc Thanh và chợ Thái Bình. Nay đường này đổi là đường Nguyễn Trãi. Ông bà Lựu cũng có người cháu nội làm Giám đốc Nha Du Học tại Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên thời đệ nhị VNCH. Lúc này cũng có người đồng hương làm chủ sự phòng là ông Đặng Xuân Quang, hiện giờ về Gò công dạy học. Ông Quang là con của thầy giáo Đặng Xuân Chiếu. Chắc quý thân hữu Gò Công đều biết. Bà Phan Thị Lựu sống đến 105 tuổi, chết vài năm sau tháng tư 1975..
Trở lại câu chuyện của ông Phan văn Huê. Ông có căn nhà lầu lợp ngói màu xanh nhập từ Pháp. Nhà tọa lạc trên bờ sông Vĩnh Thạnh (nay là Thạnh Trị). Khi ông Phan văn Huê qua đời, việc tẩn liệm thi hài của ông được quàng tại nhà trong 90 ngày. Thời đó người hiếu kỳ và những người có ân nghĩa với ông đều đến cúng bái. Khách qua đường vì tò mò ghé thăm và quan sát hay khách đến phúng điếu được thiết đãi ăn uống đầy đủ. Đến ngày chôn ông Phan văn Huê (sau 90 ngày quàng) các con cháu đều thay đổi tang phục. Mộ của ông và bà được con cháu xây cao tô bằng ô dước trong một khu đất khá rộng, mặt nền mã đều lót những tảng đá xanh cở 6 tấc x 1 thước. Xung quanh khu mộ có xây rào bằng sắt cở 12 ly, cổng vào bằng gạch. Khu mộ nầy đến nay vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt" Tương truyền sau tháng Tư 1975, có vài người xấu đến lay cắp đá xanh đem về nhà lót đường đi. Sau đó, chắc là do "gió nào độc bằng gió Gò Công" nên bị bệnh. Người nhà lo sợ, nên đem những phiến đá xanh trả về ngôi mộ của ông Phan Văn Huê. Trước ngôi mộ của ông và bà Phan văn Huê cho xây mộ chí rộng và cao, trên mặt mộ chí có khắc một bài thơ bằng chữ Nho, các con cháu sau nầy có nhờ người đọc, mà không nắm hết ý của bài thơ, chỉ biết đại ý là ca tụng công đức của ông Phan văn Huê.
Đến ngày nay vào dịp cúng giỗ ông Phan văn Huê, người cháu đời thứ 6 ngụ tại xã Thạnh Trị vẫn tổ chức lễ giỗ cho ông Phan văn Huê. Thật ra, chi phái của người cháu này còn cúng giỗ ông vì được hưởng số ruộng hương hỏa khá nhiều.
Vài dòng ghi lại trang này mục đích để bổ túc cho những gì thiếu sót đối với người đã có công xây dựng CHỢ GIỒNG ÔNG HUÊ, cũng như ghi lại hình ảnh ngôi mộ của ông bà có thể xem như là khá vững chắc, kiến trúc khá cầu kỳ, hình ảnh ngôi mộ này và chi tiết về gia phả của ông Phan Văn Huê được người cháu đời thứ 6 là ông Phan văn Lăng, cựu đốc sự hành chánh khóa 21, hiện định cư tại Orlando, Florida cung cấp.
Người ghi chép không có ý khoe khoang và cũng xin quý vị con cháu của ông Phan Văn Huê được nêu danh trên đây có ít nhiều DNA của ông PV Huê, mặc dầu ghi tắt họ, tên xin thứ lỗi và đa tạ, muôn vàn đa tạ. Trường hợp có thiếu sót xin quý vị bổ sung và sữa chữa cho. Một lần nữa xin đa tạ.

Phan Quốc Tuấn và Phan văn Vĩnh tự Nhựt chít đời thứ 7 thuộc Chi Phan văn Tài - Phái IV Đời 3 Thỉ tổ Phan văn Huê ở Gò Công. Chi này cũng chưa tìm rõ được nguồn tộc.
11./ Nhánh Phan ở Gò Tre - Gò Công

Ông bà quan lại, con cháu hèn mọn
NAN QUY TẠO HÓA ĐIỀU CẢM TIÊN TỪ
Khó của tạo hóa cảm kích từ ân đấng tiền nhân
TUẾ ĐỒNG CƯƠNG CỰC ĐỨC QUYẾT VÔ DI
Tâm tư của mình đồng tông chi không riêng tư
NGHIỆP THÙY KHẢ KẾ CỐC QUYẾT HỮU DI
Sự nghiệp truyền lại noi theo còn sót lại của ông bà để lại cho mình
PHIỆT HÀ THỌ TOÁN HỐT NHĨ TIÊN QUY
Dòng dõi lưu truyền lâu dài, con người mất sớm
NGHĨA PHƯƠNG THINH ĐOẠN ĐỊCH GIÁO PHONG VI
Tiếng thơm mẫu mực gia phong nối truyền đến sau giáo dục kém đi
XUÂN VÔ GIỚI TỮU ĐÌNH BẤT VÕ Y
Xuân không có rượu, trước sân không có trẻ vui đùa
BẰNG KIẾT ĐỊA DỤNG TRÁNG THẠCH CƠ
Người xưa lựa chỗ đất tốt dùng sức lực khai khẩn cơ nghiệp này
LƯU THỦY TÀ DƯƠNG THIÊN CỔ HẬN THU
Như nước chảy mây trôi, những người đã mất đi nối tiếc ông bà
SƯƠNG XUÂN LỘ BÁCH NIÊN BI KHẮP XUYẾT
Sương mùa xuân kết tụ lại thành giọt, sớm còn tối mất
SUY TỪ KỈNH KHẮC VU BIA
Lời nhắn nhũ khắc vào bia đá
THIÊN VẬN MẬU TUẤT XUÂN KIẾT NHẬT
Ngày tốt Trọng Xuân (tháng hai) năm Mậu Tuất
Ghi lại Nguyễn Quốc Tuấn tức Phan Quốc Tuấn
GÒ CÔNG - CHỢ GIỒNG ÔNG HUÊ
Xin đường đột chào thành viên Thạnh-Trị. Nhân biết Thạnh Trị có họ Phan, tôi ghi lại vài nét về chợ Giồng ông Huê, tất nhiên có đôi chút cần hiền huynh hay muội góp ý. Nơi xã Thạnh Trị bây giờ ngày trước gọi là Vĩnh Thạnh (Vĩnh Thạnh và Vĩnh Trị sáp nhập nên có tên gọi là Thạnh Trị.) Tôi muốn nhắc lại chuyện xưa vẫn mãi đến ngày nay còn Gò Công tên gọi có liên quan đến người tạo dựng ra CHỢ GIỒNG ÔNG HUÊ.
Chợ Giồng Ông Huê tức là chợ Vĩnh Lợi hay Vĩnh Bình, tọa lạc trên bờ sông Vĩnh Bình, Sông này chảy từ Thị xã Gò Công xuyên qua các xã Yên Luông, Thạnh Trị,Vĩnh Bình, Thạnh Nhựt và giáp nối với sông lớn ở tỉnh Tiền Giang, quận Chợ Gạo.
Ngày xưa khoảng trước 1895 một vài chục năm (vì người lập ra chợ này là ông Phan văn Huê chết vào năm 1895, sách Gò Công xưa và nay của tác giả Hùynh Minh ghi là Hồng Huê, nay xin xác nhận là Phan văn Huê vì các con cháu còn gia phả ghi rõ. Ngoài ra trên tuần báo Văn Nghệ xuất bản tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn vừa ấn hành vào đầu năm 2007 có đăng về việc này trong phần những phú hộ miền Nam..., có ông Phan văn Huê..) ông Phan văn Huê đến xã Vĩnh Thạnh lập nghiệp, mở mang, khai phá ruộng đất, vườn tược, đã sở hữu rất nhiều mẫu đất nơi đây. Lúc làm ăn khá, ông Phan Văn Huê bỏ tiền của xây cất cái chợ tên gọi là chợ Giồng, vị trí nằm gần các giồng đất và cát.Ngươi xưa thấy đâu đặt tên đó.Nghĩ đến công của ông Phan văn Huê, người dân buôn bán hay khách thương hồ đến đây trao đổi hàng hóa, lấy tên của ông là Huê để gọi luôn tên cho để dễ nhớ đồng thời nói lên việc tri ân người tạo dựng nơi buôn bán này.Từ đó tên "chợ giồng ông Huê" được dân chúng thường nói đến.
Xin lượt qua thêm vài chi tiết có liên quan đến ông Phan Văn Huê.Ông Phan văn Huê có người vợ trước tên là Lê Thị Vân, có người con gái lớn tên là Phan Thi Huệ, bà nầy là bà nội của ông Hồ Văn Trung, cựu Đốc Phủ Sứ và là nhà văn Hồ Biểu Chánh (sinh quán xã Bình Xuân-Gò công) Ông Hồ Biểu Chánh gọi ông Phan văn Huê là ông cố, có mấy người con đều có học vị và chức vụ cao như quý ông Hồ văn Kỳ Trân, Hồ văn Di Thuấn, Hồ văn Di Hinh, ..Hồ văn Ứng Kiệt ... Các cháu của ông Hồ Biểu Chánh như Phó Đề Đốc Hồ văn Kỳ Thoại, ..Kỷ sư Hồ văn Di Hấn..đều cư ngụ tại Mỹ, ngoài ra các cháu của ông Phan Văn Huê đời thứ 5 và 6 sau tháng tư 1975 vượt biên ra nước ngoài và hiện định cư tại các nước Pháp, Bỉ, Úc, Mỹ có hơn trăm người. Số cháu còn lại ở tại Saigon cũng có học vị như bác sĩ, kỷ sư đều có cuộc sống khá vững.
Khi bà vợ trước của ông Phan văn Huê qua đời, ông tục huyền với bà Lê Thị Tùng.Bà nầy không có con nên nhận người cháu gái làm dưỡng nữ đặt tên là Phan Thị Lụu. Bà Lựu có chồng tên là Trần Công Hiển. Ông Hiển làm huyện thời đó nên dân chúng thường gọi ông bà Huyện Hiển. Bà Lựu và ông Hiển có người rễ là CVT, thường gọi là ông già Sáu Câu, làm việc tại Bộ Công Chánh Saigon. Ai đã từng đi thi bằng lái xe đều nghe danh ông già Sáu Câu. Hai người rễ khác là Ls D T Tài, Tổng Trưởng Tài Chánh thời chánh phủ do ông Trần văn Hữu làm thủ tướng. và người rễ nữa là Bs Nguyễn văn Bổn, phòng mạch tọa lạc tại đường Frère Louis bên kia thành Ô Ma, giữa đoạn đường rạp Quốc Thanh và chợ Thái Bình. Nay đường này đổi là đường Nguyễn Trãi. Ông bà Lựu cũng có người cháu nội làm Giám đốc Nha Du Học tại Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên thời đệ nhị VNCH. Lúc này cũng có người đồng hương làm chủ sự phòng là ông Đặng Xuân Quang, hiện giờ về Gò công dạy học. Ông Quang là con của thầy giáo Đặng Xuân Chiếu. Chắc quý thân hữu Gò Công đều biết. Bà Phan Thị Lựu sống đến 105 tuổi, chết vài năm sau tháng tư 1975..
Trở lại câu chuyện của ông Phan văn Huê. Ông có căn nhà lầu lợp ngói màu xanh nhập từ Pháp. Nhà tọa lạc trên bờ sông Vĩnh Thạnh (nay là Thạnh Trị). Khi ông Phan văn Huê qua đời, việc tẩn liệm thi hài của ông được quàng tại nhà trong 90 ngày. Thời đó người hiếu kỳ và những người có ân nghĩa với ông đều đến cúng bái. Khách qua đường vì tò mò ghé thăm và quan sát hay khách đến phúng điếu được thiết đãi ăn uống đầy đủ. Đến ngày chôn ông Phan văn Huê (sau 90 ngày quàng) các con cháu đều thay đổi tang phục. Mộ của ông và bà được con cháu xây cao tô bằng ô dước trong một khu đất khá rộng, mặt nền mã đều lót những tảng đá xanh cở 6 tấc x 1 thước. Xung quanh khu mộ có xây rào bằng sắt cở 12 ly, cổng vào bằng gạch. Khu mộ nầy đến nay vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt" Tương truyền sau tháng Tư 1975, có vài người xấu đến lay cắp đá xanh đem về nhà lót đường đi. Sau đó, chắc là do "gió nào độc bằng gió Gò Công" nên bị bệnh. Người nhà lo sợ, nên đem những phiến đá xanh trả về ngôi mộ của ông Phan Văn Huê. Trước ngôi mộ của ông và bà Phan văn Huê cho xây mộ chí rộng và cao, trên mặt mộ chí có khắc một bài thơ bằng chữ Nho, các con cháu sau nầy có nhờ người đọc, mà không nắm hết ý của bài thơ, chỉ biết đại ý là ca tụng công đức của ông Phan văn Huê.
Đến ngày nay vào dịp cúng giỗ ông Phan văn Huê, người cháu đời thứ 6 ngụ tại xã Thạnh Trị vẫn tổ chức lễ giỗ cho ông Phan văn Huê. Thật ra, chi phái của người cháu này còn cúng giỗ ông vì được hưởng số ruộng hương hỏa khá nhiều.
Vài dòng ghi lại trang này mục đích để bổ túc cho những gì thiếu sót đối với người đã có công xây dựng CHỢ GIỒNG ÔNG HUÊ, cũng như ghi lại hình ảnh ngôi mộ của ông bà có thể xem như là khá vững chắc, kiến trúc khá cầu kỳ, hình ảnh ngôi mộ này và chi tiết về gia phả của ông Phan Văn Huê được người cháu đời thứ 6 là ông Phan văn Lăng, cựu đốc sự hành chánh khóa 21, hiện định cư tại Orlando, Florida cung cấp.
Người ghi chép không có ý khoe khoang và cũng xin quý vị con cháu của ông Phan Văn Huê được nêu danh trên đây có ít nhiều DNA của ông PV Huê, mặc dầu ghi tắt họ, tên xin thứ lỗi và đa tạ, muôn vàn đa tạ. Trường hợp có thiếu sót xin quý vị bổ sung và sữa chữa cho. Một lần nữa xin đa tạ.

Phan Quốc Tuấn và Phan văn Vĩnh tự Nhựt chít đời thứ 7 thuộc Chi Phan văn Tài - Phái IV Đời 3 Thỉ tổ Phan văn Huê ở Gò Công. Chi này cũng chưa tìm rõ được nguồn tộc.
11./ Nhánh Phan ở Gò Tre - Gò Công

Nhánh họ Phan (Gò Tre - Gò Công) do Phan Thanh Sắc ghi lại
CHUYỆN NHÀ TÔI
Tôi ghi đoạn nầy chỉ dành cho các con tôi coi như là một cách vạch rõ ngọn nguồn bên nội của chúng khi lập nghiệp ở Gò Tre đến tôi là đời thứ ba. Tuyệt không tô hồng, gia cảnh mọi thời thanh bạch, mà nêu những vất vả đắng cai từ khi nội tổ tôi gầy dựng nghiệp nhà, cha tôi không giữ được gia sản khi khởi chiến tranh, rồi cha và tôi phải vươn lên từ nền tro than để lo cho các con cháu đến ngày nay.
Nguyên “ông cố họ Lê” là một hào phú ở Gò Tre dưới, trước sau ông có 4 dòng con. Bà nội lớn tôi là con gái lớn thứ hai với hai em gái nữa tôi gọi bà Ba, bà Tư là chung một mẹ. Bà Ba sanh ba con trai, chú Phan Văn Thắng, chú Phan Văn Tới và chú Phan Văn Thưởng. Các chú nầy họ Phan vì ông nội tôi giới thiệu người em đầu ông cố về Gò Tre cưới Bà Ba tức em gái kế Bà nội lớn tôi! Vậy các chú nầy với cha tôi vẫn là đồng tộc. Bà Tư không thấy có con. Bà Bảy con Bà cố thứ nhì sanh chú Ba Trần Văn Ký, chú Ba cùng tuổi cha tôi và ở Xóm Bà Phù. Ông Tám tức ông Thôn Trưởng Lê Văn Ca ở trên là con Bà cố thứ ba. Bà cố thứ tư sanh ra ông Mười Lê Văn Mun và bà Mươi Lê Thị Lâu, các ông bà tôi mới kể ở trên.
Ông nội tôi họ Phan, người Xóm Gồng, làng Kiểng Phước, lúc nhỏ theo học chữ Nho và học thuốc với một Thầy Quảng từ ngoài Trung hắng năm theo gió mùa vào. Nội tôi làm thầy thuốc rất sớm, mát tay được mời đi chửa trị người bịnh ở các vùng lân cận. Ông cố Gò Tre gả con gái trưởng và cho một ngôi đất cất nhà phía trên nhà bên vợ. Nội tôi là con trai thứ Năm của gia đình nông dân nên cố nội tôi cho nội tôi về Gò Tre ở rể. Lúc đó lối năm 1875, nội tôi làm thầy thuốc sinh sống và sanh hai cô lớn, tôi gọi là Má Hai và Má Ba. Bà nội lớn tôi bị bịnh nan y. Nội tôi biết bà nội lớn tôi không thể sanh thêm được nên ông bà xin một người con trai của người anh ruột thứ Ba của ông Nội ở Xóm Gồng đem về Gò Tre cho bà nội lớn tôi nuôi thành Bác Tư của tôi. Bà nội lớn tôi mất năm 1890. Ông nội tôi tục huyền với bà nội người Gò Một, cùng lúc với ông cố Gò Tre cũng tục huyền với bà cố thứ tư cũng người Gò Một. Bà cố thứ tư lại là Dì ruột của Bà nội tôi. Ít ai ở Gò Tre hay bà con của tôi dù già mà biết mối liên hệ nầy nên họ lấy làm lạ tại sao trước đây cha mẹ tôi cưu mang ông Mười, ông Mươi Bà Mươi là con ông cố Gò Tre và bà cố Gò Một. Bà nội ruột tôi thế chỗ Chị Hai của ông Mười, Bà Mươi nhưng tôi thấy các ông bà nầy gọi Bà nội ruột tôi là Chị Tư vốn là thứ của bà Nội tôi hồi ở Gò Một. Bà nội tôi và ông Mười, Bà Mươi là bạn dì ruột. Ông nôi tôi sau khi tục huyền, không muốn ở trên đất vợ cũ bèn mua một ngôi đất 22 sào 40 thước phía dưới cách nhà bên vợ một ngôi. Miếng đất nguyên của một người họ Huỳnh bán lại năm 1895. Ông nội tôi cất một ngôi nhà khang trang xứng vùng và đem bà nội tôi từ Gò Một về. Từ năm 1895 ông nội tôi không còn dính tới đất đai của ông cố Gò Tre nữa, ông nội ngậm ngùi để lại mồ của bà nội lớn tôi chỉ xây trụ đá ong trên miếng đất của bà, ông nội và bà nội lớn tôi từng ở mười mấy năm, khi ông nội tôi về đất mới, để miếng đất 20 sào nầy cho người em gái thứ tư của bà nội lớn tôi trồng trọt. Vật đổi sao dời, mới đây năm 1985 miếng đất nầy sang tay chủ khác. Tôi hoảng quá, nhớ lời cha dặn phải săn sóc mồ của đích nội tổ mẩu, tôi xin người chủ mới cho tôi xây mộ gạch cho bà nội lớn và tôi cùng các anh chị con Má Ba tôi toại nguyện lo được. Tôi thay mặt Má Sáu tôi, cha tôi và chú Tám đều quá vãng, làm tròn ước nguyện và bổn phận đối với “má lớn” của ba người!
Trở lại ông nội và bà nội tôi có con tiếp là Má Năm (mất năm 9 tuổi), Má Sáu (1896 – 1988), gia phụ thứ Bảy (1899 – 1974), Chú Tám (1901 – 1955). Ông bà nội tôi ở đất mới, gia đình từ Má Sáu, cha tôi, chú Tám tôi kể như tách rời khỏi vòng gia tộc của ông Cố Gò Tre, chỉ gần gủi với bà Cố thứ tư đã sanh ông Mười, Bà Mươi. Nhưng còn Má Hai, Má Ba tôi là cháu ngoại lớn nhứt của Cố Gò Tre. Ông Bà nội tôi nuôi Má Hai, Má Ba, Bác Tư gả chồng dựng vợ trước khi ông nội tôi mất năm 1910. Má Hai, Má Ba, Bác Tư không trành tròn gì đất đai cũ của bà nội lớn. Các má và Bác Tư coi bà nội tôi như mẹ ruột sau khi ông nội tôi mất. Nay gia đình con cháu của Má Hai, Má Ba đông đúc, làm ăn thật khá. Bác Tư tôi mất năm 1944 chôn kế bên mộ ông Thôn, đất cũ ông cố do Má Ba tôi chủ trương. Má Ba tôi lúc đó nói, Má Ba là cháu ngoại lớn, khi chết có thể nằm trên đất của ông ngoại mình, nay má Ba có chồng về Tân Bình Điền nên nhường phần chỗ chôn cho em thứ tư cũng là cháu ngoại của cố.
Còn gia thế từ ông nội bà nội tôi như sau:
Chú Tám tôi được bà Nội cho ra riêng nhà bên ngoài Xóm Bà Phù có trâu có ruộng để làm. Chú mất năm 1955, có con trai con gái và các cháu đông đúc. Má Sáu tôi có chồng về Chợ, tôi đã nhắc đến người là bà chủ Chùa Thanh Trước ở trên. Còn cha tôi từ năm 1935 làm ruộng thật nhiều ở gần Gò tre hơn 10 mẩu và ở bên dòng Cửa Tiểu từ ngoài Vàm Kinh đến Trại Cá, Tăng Hoà gần trăm mẩu. Có thể nói lúc đó nhà tôi là nhà làm ruộng lón nhất ở các làng phía Đông Gò Công nầy. Ruộng ở Trại Cá là ruộng của Dượng Sáu tôi. Nhà tôi có trâu trên 6 con, mướn bốn năm người làm bạn cày, người ở giữ trâu và người đánh xe ngựa. Gia cảnh khá giả nên cha tôi quyết định cho tôi đi học. Năm 1942 tôi lên ở nhà cô là Má Sáu tôi đi học. Cuộc đời tôi nửa đồng nửa chợ bắt đầu từ năm đó. Năm 1945, cha tôi tham gia tích cực cuộc Cách Mạng Mùa Thu. Tây trở lại Gò Công. Chỉ nửa tháng sau chúng xuống tìm đốt nhà của tôi và tìm bắt cha tôi. Thế là cơ nghiệp do ông nội tôi khởi dựng và cha tôi gầy dựng năm mươi năm thành tro than. Năm sau cha tôi dựng lại nhà nhỏ trên nền nhà dưới, mong sẽ cất được nhà trên. Hai mươi năm sau năm 1965 tôi mới giúp cha tôi toại nguyện cất nhà trên bằng ngói rồi cất thêm nhà dưới năm 1972 để năm 1974 người mãn nguyện xuôi tay. Trước đó nhiều lần cha tôi nói với các người quen rằng cha tôi an lòng nếu phải theo nội tôi vì tôi đã nối được nghiệp nhà! À xin thêm, bờ đất Thôn Ca từ khi ông mất không ai gọi Bờ lớn ông Thôn nữa và gọi là Bờ lớn Biện Tứ tức tên gia phụ, nhưng thuộc đất ruộng của ông chủ điền trên Chợ, ông Nguyễn Minh Chí. Năm 1958, cha tôi đấu giá tại Toà Mỹ Tho mua được phần ruộng 1 mẩu 80 sào hai bên bờ lớn, rồi sau 1960 Cách mạng về phân lại ruộng đất, lấy 10 mẩu ruộng của Má Sáu để cha tôi làm lâu rồi, trên Lăng Ông để chia cấp cho 5 người khác làm, còn cha tôi được lấy lại phần ruộng mới mua 1 mẩu 8 làm cho gần nhà. Người nông dân cũ của sở ruộng nầy được chia 3 mẩu phía sau Xóm. Vậy là phần ruộng ông Thôn bán 50 năm trước, gia đình tôi mua lại được, và tự làm được. Sau 1975 qua bao đợt phân chia, tôi cố giữ hay chuộc lại số ruộng bị tách ra chia, để được còn nguyên vẹn phần ruộng nầy đến ngày nay. Tôi không phải là không mất đất mất ruộng. Sau 1975, năm mẩu ruộng Má Sáu tôi trí cho tôi làm ruộng hương hoả để tôi cúng ông bà toạ lạc tại Lăng Ông Gò Tre, ngay sau 1975 các người làm ruộng mướn lên đất đấp nền sang đất sang ruộng cho người nầy người nọ, tôi mất sạch, chỉ giữ cuốn “Bằng khoán” chữ Tây, chữ Việt làm kỷ niệm.
Cha tôi sống trọn đời ở Gò Tre, cuộc đời của người bao gồm nhiều hoạt động với nước non, nhiều việc làm xã hội, người người có nhớ hay không tôi không điều bận tâm, riêng tôi tôi luôn hãnh diện đã có một người cha như thế!
Phan Thanh Sắc
TIẾP GÒ TRE DƯỚI
Bên ngôi đất của nhà tôi là ngôi của nhà một ông thầy giáo. Ngôi đất rộng nhất Gò Tre, có ngôi nhà tường nền cao. Vườn rộng trồng nhiều cây xoài, trước năm 1940 phía sau ngôi đất có cho ba gia đình nghèo ở cất nhà cũng gọn gàng. Đường đi vào các ngôi nhà nầy là con đường xép nhỏ giáp ranh dưới của đất nhà tôi. Từ phía sau nhà tôi có chừa ngỏ qua các nhà nầy. Biết đi chập chửng là tôi được chị dẫn qua các nhà nầy chơi. Còn phía trước ngôi nhà gạch lúc đó do một bà lớn tuổi ở với một người cháu. Đâu lối năm 1940 bà mất, sau mới biết đó là vợ sau của cha ông thầy giáo. Gia đình ông thầy giáo về, và chỉ một thời gian sau là khu bên nhà tôi thay đổi. Tôi thấy ở các nhà phía sau có người già chết, chôn xong các người còn lại dọn đi. Hai nhà lá kia cũng dọn đi. Ông thầy giáo cho phá con đường xép bên nhà tôi và cho rằng hàng tre giáp ranh nhà tôi là của phía bên ông. Lớn một chút tôi mới biết ông là thầy giáo Nguyễn Văn Trước, dạy tại trường Kiểng Phước. Ông nhỏ hơn cha tôi hai tuổi. Thím giáo nhỏ hơn má tôi hai tuổi. Tôi gọi ông bà giáo là chú và thím. Chú thường đi dạy, thiếm gần gủi gia đình tôi. Gia đình đông con, nhưng các con lớn đi học hay làm gì đó chỉ còn các con nhỏ tuổi nhỏ hơn tôi trở xuống ở đây đi học. Sau năm 1945 chú thầy giáo đổi lên Mỹ Tho dạy học và nghỉ hưu ở đấy. Chú mất năm 1977. Thím mất các năm đầu 60. Nhà cửa ruộng vườn do người con gái thứ tư trông nôm. Ở Gò Tre đây là nhà “thanh thế” mãi đến những năm gần đây.
Gò Tre còn khu dưới phía sau Nhị Tì khách trú. Xóm nhỏ đâu năm sáu nhà gì đó. Tôi biết người chứ không biết nhà. Có nhà ba đời tiếp lãnh trông coi khu Nhị Tì. Trước lâu lắm có những người đặc biệt có tiếng như những dân lang bạc kỳ hồ như ở những khu gò mả các nơi khác. Một người khiếm thị từ nhỏ bên Gò Một giạt qua, ngày ngày lên chợ đi xin, sau lại gá nghĩa với một người đàn bà khiếm thị gặp ở chợ. Nhờ đứa con riêng của vợ dẫn đi lên chợ và các chỗ khác đi xin cũng sống qua ngày. Rồi thằng con lớn bỏ đi. Hai vợ chồng ngày sáng dẫn nhau đi chợ, trưa dẫn về, anh chồng khéo, biết khi ở chợ về đến Nhị Tì biết quẹo vô nhà. Nghe tụi nhỏ nói, ông ta vá áo nấu cơm, xuống mép đìa rửa rau được, làm mọi thứ trong nhà. Tiền đưa ông ta rờ và nói ngay số tiền. Con nít hay người lối xóm, ai ông ấy nghe giọng nói một lần, lần sau cất tiếng nói là biết ngay. Rồi người vợ mất, ông ta ở một mình, lại thêm nghề bói. Vậy mà cũng có người tìm đến coi, lại làm thầy thuốc bậy bạ. Một lần người quen của tôi đau mắt đỏ đến nhờ ông chửa, ông bảo về lấy ớt đỏ đăm nhuyển lấy nước nhỏ vào mắt. Nghe theo, mắt chị người quen sưng húp tưởng đui rồi, tôi phải chở chị vào trạm xá để nơi đây cho thuốc lại, thời may lại hết. Nhưng có lẽ việc cuối của ông thật hi hữu. Không biết ở nhà ông thờ vị “thần thánh” nào và làm sao ông ta quen một người đàn bà cách xóm có chồng có con nhà cửa đàng hoàng, người nầy bỏ nhà bỏ cửa bỏ chồng con quyết đến nhà ông để tu, chồng con kéo níu thế nào cũng không về. Ở với ông vài năm như thế, chồng con bất lực buông xuôi. Cuối cùng ông mất. Chòm xóm phụ chôn cất ông ta và người nữ đệ tử tuổi đáng con ông ta, vẫn tiếp tục ở ngôi nhà lụp xụp của ông ta để tiếp tục tu và nhang khói cho ông ta. Thiệt ông ta là người “bí hiểm” nhất Gò Tre.
Khu nầy chỉ cách nhà tôi 500 thước mà 60 năm qua tôi chỉ có một lần đi cập theo xóm xuống một nhà có tang ma. Ngõ từ ngoài lộ cập theo Nhị tì vào xóm nhỏ tôi chưa lần đi, mả thôi là mả!
Gò Tre tôi kể ở trên là Gò Tre cũ, nay người ta ra ở bít lộ, Gò Tre nở phình ra theo lộ trước mặt, nở phía sau lưng. Các nơi mới là khu sung túc.
Gò Tre cũ mãi còm cỏi già nua như những người cố cựu Gò Tre như tôi vậy!.
Thanh Trước, ngày 1-10-2006
13./ Nhánh Phan ở Cần Giuộc (Cầu Tràm) - Long An
12./ Nhánh Phan ở Ngã ba Cá-Chốt - Gò Công

Nhánh họ Phan (Ngã ba Cá-Chốt - Gò Công) do Phan Khánh Đệ ghi lại
13./ Nhánh Phan ở Cần Giuộc (Cầu Tràm) - Long An

Nhánh họ Phan (Mỹ Lộc - Cần Giuộc - Long An) do Phan Kiến Vi (gốc Thanh Hóa)
Bản dịch :
hàng thứ nhứt : (từ trái qua) CỬU HUYỀN , (giữa) CAO, (từ trái qua) THẤT TỔ
hàng thứ nhứ nhì (đọc từ phải qua, từ trên xuống theo thứ tự thế hệ, phái 1/. 2/.3/.4/. ) :
1/. Phan văn Sở / Phan văn Thái / Phan văn Viên
2/. Phan văn Tề / Phan văn Lộc / Phan văn Khôi - Phan văn Kiếm
3/. Phan văn Tâm (không thấy ghi tiếp)
4/. Phan văn Quảng , vợ : Phan thị Hoạch , Nguyễn thị Hảo
con ông Quảng : Phan văn Tứ , vợ : Nguyễn thị Đâu , Lê thị Cường
(phần không có ghi trong tông phổ)
con ông Tứ : Phan văn Khương , vợ Hồ thị Kiểm
con ông Khương : Phan Kiến Vi (8) (1947) vợ Lê thị Cảm (1945)
con ông Vi : Phan thị Thùy Trang (1966) Phan Hoàng Hải (1968)
Phan Hoàng Hồ (1970) Phan Hoàng Minh (1973)

Phan Quốc Tuấn và Ô. Phan Kiến Vi - Chi họ Phan (Thanh Hóa). Chi này cũng chưa tìm rõ được nguồn tộc.

Phan Quốc Tuấn, Phan Ngọc Hùng - Phó Chủ tịch H. Cần Giuộc - Long An 26/06/2011
Phan Quốc Tuấn, Phan Đình Tuân cùng cha mẹ
14./ Nhánh Phan ở Phước Lâm - Cần Giuộc
con ông Hồng, Phan Quốc Tuấn, Ông Phan Thanh Hồng (Ô. Từ năm nay 79 tuổi)
Phan Quốc Tuấn, Ông Phan Thanh Hồng (2) (1933) 79 tuổi
Ô. Phan văn Cát (2) (1930) 82 tuổi
15./ Nhánh Phan ở Hội An

Phan Quốc Tuấn và Ô. Phan Kiến Vi - Chi họ Phan (Thanh Hóa). Chi này cũng chưa tìm rõ được nguồn tộc.
Phan Quốc Tuấn, Phan Ngọc Hùng - Phó Chủ tịch H. Cần Giuộc - Long An 26/06/2011
Phan Quốc Tuấn, Phan Đình Tuân cùng cha mẹ
14./ Nhánh Phan ở Phước Lâm - Cần Giuộc
con ông Hồng, Phan Quốc Tuấn, Ông Phan Thanh Hồng (Ô. Từ năm nay 79 tuổi)
Phan Quốc Tuấn, Ông Phan Thanh Hồng (2) (1933) 79 tuổi
Ô. Phan văn Cát (2) (1930) 82 tuổi
15./ Nhánh Phan ở Hội An





Phan Quốc Tuấn và Ô. Phan Sinh - Chi họ Phan ở Hội An. Chi này cũng chưa tìm rõ được nguồn tộc.

Phan Quốc Tuấn, Phan Thảnh, Phan văn Bổn
Dự thảo Thư Hội đồng gia tộc đề nghị đính chính các sai sót liên quan tộc Phan Bảo An trong sách "Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam” của tác giả Phan Tương
| ||
Cập nhật ngày: 14/11/2008, 16:45 GMT+7.
| ||
(hophan.net) Sau khi đọc sách "Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam” của Phan Tương, ông Phan Bá Lương, TP.HCM có một bài viết liên quan đến những sai sót cần đình chính (đăng trong mục Tư liêu - Lịch sử), đồng thời dự thảo nội dung thư đề nghị đính chính này để Hội đồng gia tộc xem xét và có ý kiến chính thức gửi ông Phan Tương.
ĐỀ NGHỊ ĐƯỢC ĐÍNH CHÍNH VỀ BÀI VIẾT
“DÒNG HỌ VỊ THỦY TỔ PHAN NHƠN BÀN Ở BẢO AN (QUẢNG NAM )”
trong cuốn “Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam ”
của tác giả Phan Tương
(Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2007)
Kính gởi: Ông Phan Tương, 1B Đặng Thái Thân–Hà Nội
Ngày 22/6/2008, chúng tôi hân hạnh được tộc Phan Hà Tĩnh tặng cho một cuốn ““Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam” do Ông viết, trong đó có bài “Dòng họ vị Thủy tổ Phan Nhơn Bàn” (từ trang 174 đến trang 177), và với tư cách là con cháu Ngài Thủy tổ Phan Nhơn Bàn, chúng tôi trân trọng đề nghị Ông cho đính chính một số điểm trong bài viết như sau:
1-Về việc vào nam của Ngài Thủy tổ Phan Nhơn Bàn. Hiện nay, không có sử liệu nào giúp xác định được chính xác thời gian vào nam của Ngài Nhơn Bàn. Do vậy mà ngay trong tộc chúng tôi cũng có những ý kiến khác nhau về vấn đề này, người thì cho rằng Ngài vào nam thời Bình Định vương Lê Lợi chống quân Minh xâm lược, người thì cho rằng vào nam thời vua Lê Nhân Tông, người thì cho rằng vào nam thời vua Lê Thánh Tông, thậm chí cũng có người cho rằng Ngài vào nam từ đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng v.v…Ý kiến thì rất đa dạng, (điều này nói lên rằng tộc chúng tôi có rất nhiều người để tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ một sự việc đã xảy ra lâu đời trong quá khứ, đây là việc làm rất đáng trân trọng), trong đó có cuốn “Phan tộc sử lược” (mà ông dựa vào đó để viết). Tuy nhiên, cuối cùng tộc chúng tôi cũng đã thống nhất - và được ghi vào trong Phổ hệ toàn tộc lập năm 1994 – là Ngài Thủy tổ vào nam dưới đời vua Lê Nhân Tông. Đây được xem là ý kiến chính thống của tộc tính đến thời điểm bấy giờ. Vì vậy, chúng tôi rất tiếc là khi viết bài, ông đã không được xem cuốn Phổ hệ này để viết cho chính xác hơn.
2-Về việc Ngài Nhơn Bàn có thể ở trong quân đội. Việc Ngài Thủy tổ chúng tôi là một võ quan là điều chắc chắn, bằng chứng là Ngài được phong tặng “Đặc tấn phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá”. Cả hàm (Đặc tấn phụ quốc thượng tướng quân), chức vụ (Đô chỉ huy sứ), đơn vị (Cẩm y vệ), tước (Địch nghĩa bá) đều được ghi chính xác trong sử sách. Vì vậy không thể nói là “có thể”.
Bên cạnh, bài viết cho rằng Ngài “được điều động tái ngũ…lên vùng phía tây tiến đánh Lạn Sạng tận kinh thành Luông Pha Băng sát sông Mêkông, tiếp đó lại tiến sang đánh giặc Bồn Man ở vùng Cam Cớt Trấn Ninh…”. Theo chúng tôi, đây là do ông tự viết vì chẳng có cuốn sách nào của tộc tôi nêu lên những địa điểm đánh giặc này.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin được trao đổi với ông: Cẩm y vệ là một vệ quân cấm binh, có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua, vì vậy vệ quân này phải đóng tại hoàng thành. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, chỉ huy vệ quân này là Đô chỉ huy sứ, có hàm chánh tam phẩm, sơ thụ (giống như ngày nay là vào biên chế) là Anh liệt tướng quân, thăng thụ (sau một thời gian làm việc tốt thì có thăng thưởng) là Anh túc tướng quân, gia thụ (hết khung) là Anh vĩ tướng quân; nhưng vì Ngài Thủy tổ được phong tước bá nên hàm của Ngài trên hàng chánh nhất phẩm. Với chức vụ và hàm như thế, Ngài Thủy tổ chỉ có “về hưu” mới rời khỏi quân ngũ mà thôi, do đó không thể viết rằng “…chiến thắng, ông trở về Gò Nỗi …” tiếp theo việc đánh vào Lạn Sạng và Cam Cớt nói trên.
3-Về các con của Ngài Thủy tổ Phan Nhơn Bàn. Bài viết đã viết sai tên của các Ngài Thế tổ phái: Phái 2 - Phan Văn Hân (chính xác là Phan Văn Hàn), phái 4 – Phan Văn Yển (chính xác là Phan Văn Yến).
4-Về việc tìm được nguồn gốc ở Hà Tĩnh. Do Phổ hệ xưa để lại có ghi “Dĩ tiền Nghệ An thừa tuyên, Đức Quang phủ, Nghi Xuân huyện, Ao Giản xã”, nên các bậc tiền bối trong tộc tôi đều có một ao ước là “tìm về nối lại được nguồn gốc xa xưa”, nhưng do hoàn cảnh đất nước, nên mãi đến năm 1991 tộc tôi mới cử người về Nghi Xuân, và nhờ Tổ tiên phù trì mới tìm được gốc gác nêu trên, do đó không thể viết rằng “…con cháu các phái mới chỉ tìm được nguồn gốc tiền tổ xa xưa ở Hà Tĩnh…” như trong bài viết.
5-Về việc ghi chú “Như vậy cháu (Nhân) sinh trước chú (Nhơn Bàn), nhiều thể thứ thường gặp”. Như phần 1- trên tôi đã trình bày, do không có sử liệu chính xác nên năm sinh, năm mất, việc vào nam của Ngài Thủy tổ tộc chúng tôi không thể xác định được chính xác. Do đó mà phần ghi chú của ông trong bài viết là một sự áp đặt, không có cơ sở. Giả dụ Ngài Thủy tổ chúng tôi có theo vua Lê Thánh Tông vào đánh Chiêm Thành (1470-1471), thì cũng không có cơ sở để căn cứ vào đây mà cho rằng Ngài Phan Nhân sinh trước Ngài Nhơn Bàn.
6-Về Vinh Dương quận. Bài viết cho rằng huyện Nghi Xuân thời thuộc Minh “…thuộc về quận Vinh Dương..” và “…chữ Vinh Dương là tên quận do giặc Minh đặt vùng đất phía bắc Hà Tĩnh đến đời vua Lê Thánh Tông mới đổi là phủ Đức Quang…”. Chúng tôi rất nhất trí với ông về những gì ông viết tại trang 30 của sách “ Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”, đó là”…các dân tộc trên đất Việt Nam cùng các dân tộc ở phía nam Trường Giang (Dương tử giang) ở Trung Quốc, có chung một quan hệ về chủng tộc, về lịch sử, và địa bàn cư trú. Xét về các họ có tên ở Việt Nam thì ở Trung Quốc cũng đều có có các tên họ ấy: Lê, Đinh, Trần, Nguyễn, Phạm, Hồ, Hoàng, Thái, Đặng, Vũ, Dương, Đậu v.v…Họ Phan hiện có ở Việt Nam thì ở Trung Quốc cũng có họ Phan. Mặt khác những địa danh về phía nam Trường Giang cũng đều có kèm chữ Việt ở phía sau như: Triết Giang = Ô Việt, Phúc Kiến = Mân Việt, Giang Tây = Dương Việt, Hồ Nam = Kinh Việt, Quảng Đông = Nam Việt, Đảo Hải Nam = Lê Việt, Quảng Tây = Quế Việt, Vân Nam = Điền Việt, bắc Việt Nam xưa gọi là Lạc Việt …”. Có lẽ vì vậy mà để ghi nhớ cho con cháu sau này, nên dân gian thường chia một số họ ứng vào một số quận ngày trước, trong đó có họ Phan thuộc về Huỳnh Dương quận (viết là chữ Huỳnh, nhưng đọc là Vinh), chúng tôi xin gởi cho ông bài viết về vấn đề này được ghi nhận tại trang web vietnamgiapha.com để ông tham khảo. Ngoài ra nhờ internet, tư liệu lịch sử cũng được phổ biến rất nhiều, ông có thể vào trang web google.com, sau đó đánh vào dòng chữ “lịch sử Việt Nam” là sẽ thấy được rất nhiều bài viết về vấn đề này,
Xin được ghi một đoạn trong sách Khởi nghĩa Lam Sơn (của Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn, nhà xuất bản Khoa học xã hội 1977), trang 236: …”Phủ Nghệ An thời thuộc Minh là miền nam tỉnh Nghệ Tĩnh ngày nay, trừ Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn là đất châu Quỳ thuộc phủ Thanh Hóa; và Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành là đất phủ Diễn Châu. Phủ Nghệ An gồm 8 huyện và 4 châu: 8 huyện là Nha Nghi (là miền huyện Nghi Xuân), Phi Lộc (là miền huyện Can Lộc), Cổ Đổ (là miền huyện Hương Sơn), Thổ Hoàng (là miền huyện Hương Khê), Chi La (là miền huyện Đức Thọ), Chân Phúc (là miền huyện Nghi Lộc), Thổ Du (là miền huyện Thanh Chương và một phần huyện Anh Sơn)…” Xem như vậy thì có thể thấy rằng thời thuộc Minh, phủ Nghệ An không có nơi nào được đặt tên là quận/huyện Vinh Dương cả.
Đây là bài viết về tên gọi Vinh Dương lấy từ trang web vietnamgiapha.com, gửi bởi: TỘC LÊ PHƯỚC ngày: 17/12/2006
ĐƯỜNG HIỆU , QUẬN HIỆU
Đường hiệu tức là danh xưng hay xưng hiệu của một Từ Đường nào đó, chủ yếu dùng để phân biệt dòng họ, tông tộc, hoặc gia tộc này với dòng họ, tông tộc hoặc gia tộc khác.
Có 3 nguồn gốc chính để tạo thành một tên gọi, danh xưng của Tổ Đường cho một dòng tộc, đó là :
1. Địa danh ( vùng đất phát nguyên hay phát tích của dòng họ ) .
2. Điển cố (truyền thuyết hay sự việc có liên quan mật thiết đến vị Thuỷ Tổ của dòng tộc) . 3. Lời giáo huấn của các vị Tổ tiên.
Đường Hiệu cũng có thể gọi là Quận Hiệu. Quận là nơi thiết lập khu vực hành chánh thời xưa, cũng là bổn nguyên phát tích của một dòng họ. Hậu thế lưu truyền vạn đại, lo sợ mất gốc, nên lập “Đường Hiệu” để nhận biết nhau. Sau đây là Đường Hiệu của vài dòng họ tiêu biểu:
1. Tế Dương đường : Gồm họ Đinh, Giang, Đào.
2. Tây Hà đường : họ Lâm.
3. Hà Nam đường : họ Phương, Chử, Khưu.
4. Đông Lỗ đường : họ Khổng.
5. Nhạn Môn đường : họ Văn, Điền, Đồng, Nông.
6. Long Tây đường : họ Lý, Bành.
7. Thiên Thủy đường : họ Doãn, Thái.
8. Bình Dương đường : họ Âu.
9. Thái Nguyên đường : họ Vương, Dương, Vũ, Chúc, Ôn.
10. Cao Bình đường : họ Phạm.
11. Nam Dương đường : họ Diệp, Đặng.
12. Kinh Triệu đường : họ Lê, Sử, Tống, Đỗ, Đoàn.
13. Bột Hải đường : họ Cao, Âu Dương.
14. Nhữ Nam đường : họ Chu .
15.Trần Lưu đường : họ Nguyễn, Tạ.
16. An Định đường : họ Hồ, Lương.
17. Hà Đông đường : họ Bùi.
18. Diên Lăng đường : họ Ngô.
19. Bành Thành đường : họ Lưu.
20. Thanh Hà đường : họ Trương.
21. Vinh Dương đường : họ Phan, Trịnh.
22. Dĩnh Xuyên đường : họ Trần.
23. Phân Dương đường : họ Quách.
24. Giang Hạ đường : họ Hoàng.
25. Hoằng Nông đường: họ Dương.
26. Giải Lương đường : họ Quan.
27. Vũ Công đường : họ Tô.
28. Thủy Bình đường : họ Ông.
7-Ngoài ra, còn những chữ, theo chúng tôi, chưa chính xác như: “…nhiều người di cư ở nhiều tỉnh…”, “…nhiều người phấn đấu học vị cao…” v.v…, nên đề nghị sửa thành “định cư”, “đạt”…
Chúng tôi rất mong ông có đính chính sớm nhất trong cuốn sách của ông để gia phả tộc Phan Bảo An chúng tôi hoàn chỉnh hơn. Và một đề nghị là sau này khi ông có ý định viết về tộc họ chúng tôi, trước khi in ấn, xin ông vui lòng cho chúng tôi xem lại trước để tránh những sơ sót không đáng có,
Mong sớm nhận được ý kiến phản hồi của Ông.
Trân trọng.
Vui lòng liên hệ với chúng tôi tại địa chỉ:
Ban Trị sự tộc Phan Bảo An tại TP. Hồ Chí Minh, hoặc
Phan Bá Lương
96 đường 24B, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, TP. HCM
Điện thoại: 0989105238; Email: http://www.blogger.com/
| ||
Giao lưu
Họ Bạch ở Phước Lâm - Cần Giuộc
Bạch Ngọc Tứ tại chùa Ông Đá
cháu ngoại của Cụ Liêu Quang Vinh - Liêu Quang Dung, viết và dịch lại phổ họ Phan
Tộc trưởng Phan ở Long Trì - Dương Xuân Hội trao phổ cho Ô. Phan Hữu Đức tự Ngun
Lăng Hoàng gia - Nhánh họ Phạm Đăng
Họ Nguyễn ở Đức Hòa - Long An
Họ Phan ở Thanh Vĩnh Đông - Long An
Lấy cốt Ông Bà Nội 05-03-2011 (Mùng 03 tháng 03 âm lịch)
chính phủ giải tỏa để thành lập Huyện Bình Tân ở Gò Công
nơi đây trước 1975 là Làng Chiêu hồi của VNCH. do Trung tá Trần văn Chuyên CM - đại diện
Chuẩn bị đào giữa hai bên hông, phần vì nước ngầm dưới ruộng làm phân hóa thọ tử.
Lấy nắm cốt (bên ông nội)
Cốt của ông hòa lẫn tro và đất, tủy trong rất to chứng tỏ xương Cụ rất tốt, Tuấn có bóc xem và vò thử màu đỏ bầm. Khi lộ cái thọ thì mùi tử khí bốc lên của ông bà cụ.
Cốt của bà nội hầu như hòa lẫn tro và đất, bà Cụ thì còn chiếc huyền màu đen láng rất tốt. Nghe kể lại thì ngày xưa các vị ưa thích đeo vòng Huyền (màu đen)
Theo nghi lễ An linh, thầy trụ trì đọc kinh cầu siêu an linh hai Vị, các cháu cố nội quỳ lạy bên dưới
Tháp nơi an vị hài cốt hai Vị
thầy trụ trì Thích Như Trang
Chùa Dư Khánh - Đ. Tết Mậu Thân (hướng ra Ao trường đua) Gò Công
Nguyễn Quốc Tuấn tức Phan Quốc Tuấn bên hủ cốt ông bà nội
Nhánh cháu nội ngoại Cụ Phan Vang Thọ
Nhánh cháu nội ngoại Cụ Phan Vang Thọ
Phan thị Ngọc Sương (6) (1950) và cháu Kristina
Phan thị Ngọc Sa (7) (1955) và bạn
Phan thị Ngọc Sa (7) và con trai Lê Phan (LP)
Nhánh Ô Phan Colline (9)
Nguyễn Công Trọng (3) 82 tuổi - cháu ngoại Cụ Phan văn Thịnh (6)
Phan Chiêu Hoàng (9) (1940) ờ Ấp Thanh Bình 2 - Long An
thuộc Nhánh Thanh Vĩnh Đông
Nhánh cháu, chít Cụ Phan văn Tươi (3)
Nhánh chít Cụ Phan văn Tươi (3)
Nhánh cháu ngoại Cụ Phan văn Thịnh (6)
Cô Út Châu thị Dực (10) con Cụ Phan thị Điện
cháu ngoại họ Phan
Gia đình Tu sĩ Lê Phước Êm tự Trí Hòa, Phái Già Lam
| ||
Ô. Phan Chính (Phan gốc Đà Sơn - Đà La. Đà Nẵng), Ô. Phan Quốc Tuấn (Phan gốc Tp.Hội An)
Ô. Phan Chính (Phan gốc Đà Sơn - Đà La. Đà Nẵng), Ô. Phan Quốc Tuấn (Phan gốc Tp.Hội An)
Kts. Đinh văn Hời - Phan Quốc Tuấn
cháu Phan Tấn Hồng (đứng)
TT. Phan Văn Khải, Phan Quốc Tuấn, Phan Văn Dĩnh
Phan Chính, Phan Giảng, Phan Quốc Tuấn, Phan Nhựt
Cụ Phan Nựu (1921) 93 tuổi, Phan Quốc Tuấn - 14/04/2013
Nhánh Phan ở Đức Thọ - Hà Tỉnh, lập cư tại Ngã ba Trãng Dài - Đồng Nai
(gần Khu giải trí Tám Đảng) Thủ từ Phan Diệu (1944) con của cụ Nựu
ĐẠI HỘI PHAN TỘC TPHCM 20/9/2018
Phan Thị Phi, Phan Quốc Tuấn, Phan Kim Trụ, Phan Văn Chín, Phan Chính, Phan Công Toàn,
Phan Tấn Thành
Phan Quốc Tuấn, Phan Kim Trụ, Phan Chính
Phan Quốc Tuấn, Phan Tấn Thành
Phan Quốc Tuấn, Phan Châu Sơn, Phan Tấn Thành, Phan Công Toàn, Phan Chính
Phan Quốc Tuấn (1954) Phan Chính (1934) Phan Châu Sơn (1956)
Phan Công Toàn (1941)
Phan Văn Nên, Phan Quốc Tuấn
Phan Quốc Tuấn, Phan Kim Trụ (1938)
16./ Nhánh Phan ở Giáng La
4 Thôn La Huân, ĐS.22 xã Điện Thọ, Thị xã Điện Bàn
Hội An, Tỉnh Quảng Nam
15 - 17/1/2023
Phan Văn Ánh (Lễ Tế), Phan Hoàng Nam, Phan Công Ngợi (1951)
Tộc Trưởng Giáng La, Phan Quốc Tuấn.
Sandy Huynh (Huỳnh Ngọc Diệp), Phan Hoàng Nam,
Phan Quốc Tuấn, Phan Chính (1934) 90 tuổi
Sandy Huynh (Huỳnh Ngọc Diệp), Phan Hoàng Nam, Phan Văn Trình (Ban Lễ Tế)
Phan Quốc Tuấn
Mộ Ngài Đời II ở Thôn Phước Lý-Hoà Minh, Đà Nẵng
Mộ Ngài Phu Nhân Đời II ở Thôn Phước Lý-Hoà Minh, Đà Nẵng





































%2BPhan%2BQu%E1%BB%91c%2BTu%E1%BA%A5n%2B(1954).jpg)
%2BPhan%2BQu%E1%BB%91c%2BTu%E1%BA%A5n%2B(1954).jpg)
















































